Điện Biên: Phát huy nguồn lực từ tôn giáo, tín ngưỡng để phát triển kinh tế du lịch
Tôn giáo - Tín ngưỡng Thứ sáu, 23/09/2022 - 16:27
Tỉnh Điện Biên: nhận chuyển giao công nghệ trồng sâm từ Hàn Quốc |
Văn hóa tín ngưỡng: sản phẩm du lịch mới
Điện Biên là tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh phía Tây Bắc của Tổ quốc, diện tích tự nhiên 9.562,9 km2, có đường biên giới dài 455,57 km, là tỉnh duy nhất tiếp giáp với hai quốc gia Lào và Trung Quốc (trong đó Lào 414,72 km Trung Quốc 40,86 km); có 10 đơn vị hành chính cấp huyện gồm 08 huyện, 01 thị xã, 01 thành phố), với 129 xã, phường, thị trấn; dân số toàn tỉnh hơn 61 vạn người, có 19 dân tộc cùng sinh sống (Mông 31,1%; Thái 35,2%; Kinh 17,3%; còn lại là các dân tộc khác).
Với vị trí chiến lược, những năm qua, tỉnh Điện Biên luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư, kinh tế phát triển ổn định, văn hóa xã hội có những chuyển biến tích cực, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện, khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững.
Tuy nhiên, Điện Biên vẫn là tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển, đời sống một bộ phận nhân dân còn rất nhiều khó khăn; cùng với đặc điểm tự nhiên của tỉnh, nên những năm qua, các thế lực thù địch, phần tử xấu triệt để lợi dụng để kích động, ly khai, tự trị, tuyên truyền đạo trái pháp luật, di cư tự do, xuất cảnh trái phép, mua bán vận chuyển trái phép các chất ma túy, buôn bán người, cùng với tỉ lệ người nghiện cao (hơn 1,5% dân số) đã gây ra nhiều hệ lụy về xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến công tác bảo vệ, đấu tranh nhân quyền.
Nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân thông qua giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, tâm linh của đồng bào dân tộc thiểu số tại địa phương, tỉnh Điện Biên đã có nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến khích để các giá trị văn hóa, tâm linh đó trở thành một “cứu cánh” trong phát triển kinh tế cho người dân địa phương.
Hiện nay, tỉnh Điện Biên có các loại hình tín ngưỡng gồm: tín ngưỡng thờ người có công với đất nước, tiêu biểu như thờ nhân vật lịch sử Hoàng Công Chất tại đền Hoàng Công Chất - di tích Thành Bản Phủ, xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên; tín ngưỡng thờ cúng xử ca của người Mông, thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng vạn vật hữu linh - tín ngưỡng đa thần (thờ thần sông, thần suối, thần rừng, thần cây, thần đất.... của các dân tộc trên địa bàn tỉnh và tín ngưỡng thờ Then của người Thái trắng.
Nhằm thực hiện tốt các quy định và nội dung liên quan về cơ sở tín ngưỡng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành văn bản số 2106/SVHTTDL-DSVH ngày 22/11/2018 về việc triển khai thực hiện Nghị định số 110/2018/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý và tổ chức lễ hội, qua đó tăng cường tuyên truyền, nâng cao ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành, nhân dân và du khách nghiêm túc thực hiện và triển khai có hiệu quả Nghị định của Chính phủ quy định về quản lý và tổ chức lễ hội, các quy định của Đảng, nhà nước về quản lý, tổ chức lễ hội tại địa phương.
Trong số các loại hình tín ngưỡng, tín ngưỡng chủ đạo của các dân tộc là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Trong các hình thái tín ngưỡng dân gian, thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng cổ truyền mang tính phổ biến tại cộng đồng các dân tộc. Thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục truyền thống, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của cộng đồng, là một trong các thành tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam.
Tín ngưỡng thờ cúng xử ca của người Mông được duy trì là bởi theo quan niệm của người Mông, xử ca (có nơi người Mông còn gọi là xử cang) là ma có vị trí quan trọng trong hệ thống ma nhà của người Mông (ma nhà gồm: ma tổ tiên, ma xử ca, ma buồng, ma cửa, ma bếp). Trong đó ma xử ca được họ coi trọng nhất, đó là ma có nhiệm vụ cai quản của cải, tiền bạc, phù hộ cho gia đình làm ăn khá giả (điều đó cũng được hiểu xử ca giống như thần tài của người Kinh), ngoài ra người Mông còn cho rằng xử ca có nhiệm vụ giữ các linh hồn trong gia đình, không cho đi lang thang. Mỗi năm vào dịp Tết (theo lịch của người Mông) họ làm lễ để thay bàn thờ mới cho xử ca (còn gọi là thay áo mới) vào ngày 30 tết. Đây là nét đẹp văn hóa cần được gìn giữ và phát huy trong cộng đồng người Mông.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Mông |
Trong khi đó, tín ngưỡng thờ Then của người Thái trắng chủ yếu được duy trì theo cách "Cha truyền con nối" hoặc người được truyền dạy thực hành các nghi lễ Then. Những người làm nghề Then sẽ lập bàn thờ Then tại nhà để thờ cúng và luôn tin tưởng vào sự phù hộ, dẫn lối của các quan Then hoặc các Tổ Then đã trợ giúp cho người trần gian được khỏe mạnh, hạnh phúc.
Để phát huy được các loại hình tín ngưỡng phải đồng thời đẩy mạnh các hoạt động tại cơ sở tín ngưỡng, đặc biệt là gắn liền với hoạt động du lịch .Việc sử dụng cơ sở tín ngưỡng trong phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã được quan tâm trong nhiều năm qua.
Tiêu biểu kể đến di tích Thành Bản Phủ được liên kết với hệ thống tuyến tham quan di tích chiến trường Điện Biên Phủ và các di tích khác trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, di tích Thành Bản Phủ đã trở thành điểm đến quen thuộc của nhiều du khách trong và ngoài nước bởi du khách đến đây không chỉ nghiên cứu, tìm hiểu về các giai đoạn lịch sử mà còn chiêm ngưỡng, cảm nhận vẻ đẹp về văn hóa các dân tộc và ý nghĩa, giá trị về văn hóa tín ngưỡng được hội tụ trong những ngày diễn ra lễ hội tại đây.
Lễ hội Thành Bản Phủ đã trở thành một sản phẩm hút khách du lịch |
Cơ sở tín ngưỡng - đền Hoàng Công Chất đã được chính quyền địa phương phối hợp với các cơ quan, ban ngành của tỉnh quan tâm chỉ đạo tổ chức, tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, ý nghĩa, giá trị của lễ hội gắn với di tích. Do đó hàng năm di tích Thành Bản Phủ đã đón hàng nghìn lượt khách du lịch.
Tạo sinh kế bền vững cho người dân
Có thể nói cùng với các hoạt động tín ngưỡng đã hình thành các sản phẩm, dịch vụ du lịch độc đáo, hấp dẫn cho cộng đồng dân cư tại địa phương.
Đơn cử như, tại cơ sở thờ tự của các gia đình thầy Then ở Điện Biên để duy trì và gìn giữ có thể phát huy giá trị gắn với du lịch, các thầy Then đã thông qua việc tổ chức, kết nối cho du khách tìm đến cộng đồng để nghiên cứu, trải nghiệm về những ngày diễn ra lễ Kin pang Then được tổ chức vào mùa xuân hàng năm.
Như vậy, các hoạt động tín ngưỡng trên địa bàn tỉnh đã trở thành phong tục tập quán, được cộng đồng thường xuyên thực hành và trao truyền qua các thế hệ. Tín ngưỡng ấy đã ăn sâu trong lối sống, nếp nghĩ của người dân, tạo niềm tin và động lực tinh thần rất lớn cho nhân dân các dân tộc, giúp họ cân bằng cuộc sống và tích cực tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Theo TS. Trần Hữu Sơn- Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam thì Di sản văn hóa tín ngưỡng của các dân tộc người bổ sung các loại hình dịch vụ mới cho du lịch. Du lịch di sản ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế - xã hội của người dân. Trước hết, du lịch di sản góp phần chuyển đổi sinh kế, nâng cao thu nhập cho cộng đồng các dân tộc tham gia vào các chuỗi du lịch. Đơn cử như người Dao ở các xã Tả Phìn, Tả Van, Nậm Cang,... (huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai) đã chuyển từ độc canh cây lúa sang làm du lịch. Mỗi năm, các điểm du lịch của người Dao đón hơn 4 vạn du khách, tổng nguồn thu ước đạt hơn 20 tỷ đồng…
Cũng theo TS. Trần Hữu Sơn thì thực tế cho thấy, lượng khách du lịch đến một số điểm du lịch có giá trị về tâm linh, giá trị về nghệ thuật thường rất đông. Trước đây, nhiều lễ hội của thôn, bản chỉ đón khách ở thôn bản hoặc một số ít khách của địa phương nhưng hiện nay lại tiếp nhận một cách ồ ạt lượng lớn khách hành hương, dẫn đến tình trạng quá tải tại điểm du lịch. Do vậy để phát triển và bảo tồn một cách bền vững, các địa phương cần phải xây dựng kế hoạch, chiến lượng phát triển bài bản và nằm trong chiến lược phát triển tổng thể kinh tế -xã hội của địa phương.
PGS.TS Chu Văn Tuấn- Viện trưởng Viện Nghiên cứu tôn giáo nhận định: Hiện nay, các giá trị của văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo cũng đã bước đầu được khai thác phục vụ mục đích du lịch. Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn đã cho thấy tầm quan trọng của du lịch trong phát triển đất nước.
Trong những năm qua, du lịch tâm linh đã trở thành một xu hướng thu hút đông đảo khách tham quan trong và ngoài nước. Các địa phương quan tâm đến phát triển du lịch tâm linh không chỉ bởi nguồn thu cho ngân sách hằng năm, mà còn mong đợi du lịch tâm linh sẽ mang lại tác động tích cực khác cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Thông qua phát triển du lịch tâm linh, một lực lượng lao động không nhỏ tại địa phương có công ăn việc làm bằng việc tham gia vào rất nhiều dịch vụ đi kèm như các hàng hóa, sản phẩm phục vụ khách du lịch, dịch vụ giao thông, vận tải, dịch vụ ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí.
Thông qua phát triển du lịch, khi lượng khách trong và ngoài nước đến tham quan, du lịch đông, các ngành kinh tế khác của địa phương cũng được kích thích phát triển như các ngành nghề nông nghiệp, thủ công nghiệp (ví dụ các ngành nghề truyền thống: mây tre đan, dệt, gốm sứ, mộc…). Sản phẩm của các ngành nghề tại địa phương có dịp quảng bá rộng rãi hơn, tiêu thụ được nhiều hơn, có cơ hội để ký kết, hợp tác trong sản xuất, kinh danh, tiêu thụ sản phẩm với các đối tác trong và ngoài nước…
Như vậy, nếu như các địa phương biết khai thác các di sản tín ngưỡng, tôn giáo để phát triển du lịch một cách có chiến lược, có mục tiêu rõ ràng và hướng đến phát triển bền vững thì có thể kích thích phát triển kinh tế xã hội của địa phương rất hiệu quả. Không chỉ là các ngành nghề liên quan đến du lịch mới được phát triển mà tất cả các ngành, lĩnh vực khác cũng được kích thích phát triển. Thông qua đó, cơ sở hạ tầng của địa phương cũng được xây dựng và phát triển, những cơ hội đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đối với địa phương cũng vì thế mà được mở rộng.