Kon Tum: Người dân có cuộc sống khấm khá hơn nhờ phát triển du lịch cộng đồng
Kinh tế - Hội nhập Chủ nhật, 26/02/2023 - 18:38
Đắk Nông: Thúc đẩy phát triển du lịch cộng động tại huyện Krông Nô Bản Mạ - điểm du lịch cộng đồng của người Thái ở Thanh Hóa “hút” khách du lịch |
Ngày cuối tuần, chúng tôi có dịp đến với làng Kon Pring (thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum) cách trung tâm thành phố Kon Tum khoảng chừng 60km. Làng có khoảng 95% hộ gia đình là người Mơ Nâm (một nhánh của dân tộc Xê Đăng).
![]() |
Homestay của bà Y Lim với kiến trúc nhà sàn truyền thống đơn giản, mộc mạc |
Đón chúng tôi ở làng Kon Pring là bà Y Lim– Tổ trưởng Tổ hợp tác liên kết du lịch cộng đồng của làng.
Bà Y Lim cho biết, Kon Pring được công nhận là làng du lịch cộng đồng Kon Tum từ cuối năm 2018. Từ đó đến nay, đây là địa điểm được đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan, trải nghiệm.
Thực hiện đề án của huyện Kon Plông về Phát triển du lịch cộng đồng làng Kon Pring, chính quyền địa phương đã hỗ trợ hơn 1 tỉ đồng cho 3 hộ dân để xây dựng nhà sàn truyền thống theo hình thức homestay để đón khách lưu trú và trưng bày giới thiệu nét đẹp văn hóa dân tộc.
Hộ gia đình bà Y Lim là một trong 3 hộ dân được hỗ trợ kinh phí xây dựng nhà sàn để phát triển du lịch cộng đồng. Không những thế, bà được chính quyền địa phương đưa đi tập huấn, tham quan các mô hình du lịch cộng đồng ở các tỉnh Tây Bắc, tỉnh miền Trung,…
“Trước khi chưa làm du lịch, gia đình tôi rất khó khăn. Nguồn thu nhập chỉ trông chờ vào thửa ruộng gần nhà, mỗi năm trồng lúa thu lại chả bao. Tôi may mắn được chính quyền địa phương đầu tư làm du lịch, đến nay lượng khách ghé thăm đều đặn. Vì thế cuộc sống của gia đình cũng khấm khá hơn”, bà Y Lim bộc bạch.
Homestay của bà Y Lim dần dần đông khách. Trung bình mỗi tháng gia đình bà đón từ 3 - 4 đoàn khách, mỗi đoàn từ trên 10 người, còn có đoàn hơn 100 người cũng đã đến homestay. Cũng từ đó, bà đã thành lập Tổ hợp tác liên kết du lịch cộng đồng với 22 thành viên là chị em phụ nữ trong làng. Mỗi lần có đoàn khách tới thì bà sẽ tập trung các thành viên để đi hái các vật liệu trên rừng, rồi sau đó phân chia ra người nấu ăn, người phục vụ, người đánh cồng chiêng, múa xoang.
Bà Y Lim chia sẻ: “Trung bình mỗi tháng, trừ hết chi phí cho thu nhập trên 15 triệu đồng. Những ngày lễ, Tết thì hơn 30 triệu đồng. Trước kia tôi làm nông thì đâu có số tiền lớn như này. Các thành viên trong Tổ cũng có thu nhập ổn định từ hoạt động du lịch thông qua việc bán các sản vật của địa phương, phục vụ đồ ăn như cơm lam, gà nướng, rượu cần… cho khách du lịch”.
![]() |
Bà Y Lim giới thiệu những ché để chứa rượu cần đón khách du lịch |
Được biết, bà Y Lim còn là đội trưởng đội cồng chiêng của làng. Bà đã kết hợp việc biểu diễn cồng chiêng, múa xoang cho du khách. Vì du khách thích không khí được hòa mình vào những màn diễn xướng, cồng chiêng truyền thống của bà con dân tộc thiểu số nơi đây nơi đây. Để phục vụ khách du lịch, đòi hỏi làng phải duy trì đội cồng chiêng, múa xoang và thường xuyên luyện tập. Người lớn có trách nhiệm truyền dạy lại cho thế hệ trẻ để tiếp nối các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
Ngoài biểu diễn trong làng du lịch, đội cồng chiêng của bà Y Lim còn được nhiều doanh nghiệp, khách sạn, nhà nghỉ trên thị trấn Măng Đen mời biểu diễn. Mỗi lượt như thế, họ trả phí cho đội là từ 2,5 triệu – 3 triệu đồng, rồi chia ra mỗi thành viên sẽ nhận được 200 nghìn-300 nghìn đồng/người.
Nằm bên cạnh dòng sông Đăk Bla hiền hòa, làng du lịch cộng đồng Kon K’tu (xã Đăk Rơ Wa, thành phố Kon Tum) là một trong những ngôi làng cổ nhất ở Kon Tum của người Bahnar với tuổi đời trên 300 năm và được xem là ngôi làng cổ đẹp nhất Tây nguyên hiện nay. Hơn 95%
Anh A Kâm - Tổ trưởng tổ hợp tác du lịch làng du lịch cộng đồng Kon K’tu cho biết, từ khi được công nhận là Làng du lịch cộng đồng đã không còn tình trạng làm du lịch tự phát, đơn lẻ như trước nữa, mà nay đã mang tính cộng đồng, cùng hợp tác để làm du lịch. Làng Kon K’tu hiện có 150 hộ thì khoảng 6 hộ làm homestay, những hộ dân còn lại cũng rất tích cực, cùng nhau phát triển du lịch từ bản sắc văn hóa của dân tộc.
“Nhà tôi cũng học theo người đi trước mở một Homestay vào năm 2019 để cùng phục vụ du lịch. Ở làng này, mỗi nhà đều nuôi heo, nuôi gà, ủ rượu cần, chuẩn bị ống lam để làm cơm khi có khách ghé thăm. Đồng thời luôn có một đội cồng chiêng sẵn sàng phục vụ du khách. Các nghệ nhân cũng được mời về để biểu diễn”, anh A Kâm cho hay.
Ngoài phục vụ diễn xướng cồng chiêng, múa xoang, tổ hợp tác của anh Kâm sẽ dẫn khách tham quan trực tiếp trải nghiệm các nghề thủ công truyền thống như đan lát, dệt thổ cẩm,…
![]() |
Một homestay du lịch tại làng du lịch cộng đồng Kon K’tu |
Theo anh Kâm, mỗi tháng sẽ có 3-4 đoàn khách du lịch tới tham quan và trải nghiệm tại làng. Tổ cũng thống nhất lấy mức giá hợp lý sẽ bao gồm ẩm thực và xem biểu diễn cồng chiêng, với trên 150 nghìn đồng/người đối với đoàn khách trên 30 người. Còn khách muốn lưu trú tại các homestay thì mức giá là 120 nghìn đồng/người. Từ đó, Tổ thu lợi nhuận bình quân khoảng 30 triệu đồng/tháng sẽ chia đều cho các tổ nhỏ như: ẩm thực; đan lát, dệt thổ cẩm; cồng chiêng, múa xoang; hướng dẫn viên; homestay,… Nhờ làm du lịch, thu nhập của bà con được nâng lên đáng kể, không còn cảnh phụ thuộc vào cây lúa, củ mì như trước đây.
Theo ông Đoàn Văn Hậu – Chủ tịch UBND xã Đăk Rơ Wa (thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum) cho biết, phát triển du lịch cộng đồng làm thay đổi nhận thức của bà con đồng bào dân tộc thiểu số. Bà con đã biết khai thác tiềm năng, lợi thế có du lịch, giảm bớt các hoạt động làm nông nghiệp để chuyển sang làm thương mại, dịch vụ. “Mô hình làng du lịch cộng đồng không chỉ giúp người dân phát triển kinh tế, quảng bá văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số mà còn khơi gợi tình yêu và niềm tự hào của đồng bào dân tộc thiểu số trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc mình”, ông Hậu nói.
Tin mới nhất

Bộ Công Thương: Những nỗ lực nâng cao và lan toả tinh thần dân tộc

Thúc đẩy ngành Halal Việt Nam phát triển chuyên nghiệp, toàn diện

Longform | Những “sứ giả kinh tế” làm rạng danh hàng hoá, thương hiệu Việt trên thế giới

Thành tựu kinh tế song hành phát triển quyền con người ở Việt Nam: Dấu ấn tự hào sau gần 40 năm

Dấu ấn phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền của Việt Nam
Tin cùng chuyên mục

Kết nối tăng tín dụng trên miền đất bazan

Kiên Giang: Đồng bào Khmer đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế

Bộ Công Thương: Nhiều giải pháp thúc đẩy đầu ra cho sản phẩm đặc sản địa phương

Cần có giải pháp mang tính đột phá về văn hóa, xây dựng con người Việt Nam trong bối cảnh mới

Longform | Tự hào những thương hiệu Việt Nam vươn tầm thế giới

Chuyên gia kinh tế: Xây dựng chợ miền núi gắn với du lịch và lan toả văn hoá vùng miền

Tỉnh Yên Bái nỗ lực đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững

Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm vùng đồng bào dân tộc, miền núi

Gia Lai: Kết nối cung cầu, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Đồng bào dân tộc Mông ở Sà Phìn (Hà Giang) phát triển kinh tế nhờ chính sách dân tộc

Cao Bằng: Điểm đến, kết nối và phát triển

Giải pháp nào khai thác giá trị văn hoá trong tiêu thụ sản phẩm của bà con dân tộc?

Phú Thọ phát huy hiệu quả các nguồn lực và bản sắc văn hóa địa phương

Quảng Ngãi: Đưa sản phẩm miền núi đến với người tiêu dùng

Đưa văn hoá vào sản xuất, tiêu thụ sản phẩm miền núi, vùng dân tộc: Cần tổng hoà nhiều giải pháp

Khai thác giá trị văn hoá trong phát triển sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Longform | Chè Suối Giàng và ước mơ thương hiệu quốc gia, vươn tầm quốc tế

Thương cảng Hội An: Từ thương cảng xưa để nhìn về phát triển kinh tế biển ngày nay

Nâng cao năng lực nội sinh, tự lực, tự cường của nền kinh tế Việt Nam
