
Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
“Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” là nhan đề bài viết của PGS, TS. Nguyễn Trọng Phúc - nguyên Viện truởng Viện Lịch Sử Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Trân trọng kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Bài viết:
Đảng Cộng sản Việt Nam có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững khi bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng nêu rõ mục tiêu chiến lược của cách mạng là: "Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập", "để đi tới xã hội cộng sản". Đó cũng chính là sứ mệnh lịch sử vẻ vang của Đảng lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn dân tộc từ đó tới nay và là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn bảo đảm cho cách mạng và dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và có được cơ đồ như ngày nay.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930. (Ảnh chụp lại tranh của họa sĩ Phi Hoanh tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia).
Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 do Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo đã mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc Việt Nam - Kỷ nguyên độc lập tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội. Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, Đảng Cộng sản cầm quyền có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Kháng chiến chống xâm lược để giành lấy độc lập, thống nhất hoàn toàn với chân lý nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sự nghiệp đấu tranh kiên cường đó kéo dài 30 năm mới đến ngày toàn thắng 30/4/1975. Công cuộc kiến quốc đồng thời diễn ra để tạo dựng một xã hội mới tốt đẹp, vì ấm no, hạnh phúc của đồng bào, đất nước giàu mạnh, với khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa dân tộc Việt Nam “bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Sứ mệnh lãnh đạo, cầm quyền của Đảng từ sau Cách mạng tháng Tám đã gần 80 năm. Việt Nam xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa từ một nước thuộc địa, phong kiến nghèo nàn và lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá.
Nhớ lại thời miền Bắc làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, vốn liếng chỉ có 3 sào ruộng một đầu người (hơn 1.000 m2) với mấy mỏ than ở Quảng Ninh. "Năm hai mùa chua mặn. Gian nan. Hai tay trắng với giang sơn một nửa" (Tố Hữu). Vậy mà miền Bắc đã vươn mình, mạnh mẽ từ đường lối Đại hội III của Đảng (9/1960), nhiều chính sách và các cuộc vận động lớn. Năm 1964 đã đủ lương thực cho toàn xã hội, tự túc 90% hàng tiêu dùng với số dân 17 triệu người. Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt 27/3/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới.
Sau ngày đất nước thống nhất 30/4/1975, cả dân tộc đứng trước vận hội mới để phát triển nhưng lại phải đương đầu với những thách thức nặng nề. Hậu quả của 30 năm chiến tranh, cả nước vẫn là nền kinh tế sản xuất nhỏ, lạc hậu với 45 triệu dân. Các nước và các thế lực thù địch bao vây, cấm vận và phá hoại. Thiên tai và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ác liệt ở biên giới Tây-Nam và biên giới phía Bắc và phải thực hiện nghĩa vụ quốc tế, cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. "Lụt Bắc, lụt Nam, máu đầm biên giới. Tay chống trời, tay giữ đất căng gân" (Tố Hữu). Tình hình khắc nghiệt đó đã dẫn tới đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội từ năm 1979.
Đảng cũng thẳng thắn tự nhận thấy khuyết điểm yếu kém của chính mình trong lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8/1979) khởi đầu quá trình tìm đường đổi mới. Tiếp đó là Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán trong hợp tác xã nông nghiệp (13/1/1981); Quyết định 25CP, 26 CP (21/1/1981) của Chính phủ trong quản lý công nghiệp; Đại hội V của Đảng (3/1982); Hội nghị Đà Lạt (7/1983); Nghị quyết Trung ương 8 khóa V (6/1985) và Kết luận của Bộ Chính trị (8/1986). Đó là những bước đột phá của quá trình đổi mới từng phần để đi tới đường lối đổi mới tại Đại hội VI của Đảng (12/1986).
Đường lối đổi mới toàn diện của Đại hội VI là kết quả của đổi mới tư duy lý luận, khắc phục nhận thức giản đơn về chủ nghĩa xã hội, bệnh giáo điều, nóng vội và chủ quan duy ý chí. Nhận thức rõ hơn đặc điểm của Việt Nam, những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội VI nhấn mạnh bài học: "Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng". Đại hội VI của Đảng là cột mốc lịch sử đặc biệt mở ra thời kỳ phát triển mới của cách mạng và đất nước Việt Nam và cũng thể hiện trách nhiệm và sứ mệnh lịch sử của Đảng trước đất nước và nhân dân.
Quá trình đổi mới gần 40 năm qua, Đảng và dân tộc Việt Nam đã lập nên kỳ tích, làm biến đổi sâu sắc, toàn diện đất nước và mỗi gia đình, mỗi con người. Chưa bao giờ Việt Nam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Nhưng Đảng và dân ta cũng phải vượt qua nhiều thử thách, nguy cơ. Thử thách rất lớn là ảnh hưởng tiêu cực của sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự tồn tại 4 nguy cơ lớn cản trở sự phát triển và đổi mới. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Nguy cơ "diễn biến hòa bình", sự chống phá của các thế lực thù địch. Quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo có một đặc điểm là luôn luôn tranh thủ cơ hội để phát triển và chủ động đẩy lùi nguy cơ, vượt qua mọi cản trở để đi tới.
Đảng Cộng sản Việt Nam có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững khi bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Kỷ nguyên là khái niệm khoa học để chỉ một thời kỳ, một thời đại lịch sử với những nội dung, đặc điểm, đặc trưng nổi bật dẫn dắt một dân tộc hoặc nhân loại đi tới mục tiêu cao cả và hiện thực. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam để đi tới một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hiện đại, văn minh và hạnh phúc. Thực hiện sứ mệnh lãnh đạo trong kỷ nguyên mới đòi hỏi Đảng phải kế thừa thành công trong sự lãnh đạo ở các thời kỳ trước, xử lý những vấn đề mới đặt ra một cách khách quan, khoa học cả về lý luận và thực tiễn, tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển lý luận và tổng kết thực tiễn.
Một là, tiếp tục làm rõ mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với những đặc trưng, hình thức, bước đi phù hợp với thực tiễn của đất nước và sự biến đổi của thời đại. Sự phát triển đó dựa trên 8 đặc trưng mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) do Đại hội XI thông qua. Đại hội XI đã nêu rõ:
"Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Đại hội XIII của Đảng (1/2021) chủ trương: "Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa"6 năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Đoàn Chủ tịch điều hành Đại hội. Ảnh: TTXVN
Đảng trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với điều kiện mới. Kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, không ngừng đổi mới nhận thức và hành động. Với tinh thần đó, năm 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng công bố tác phẩm: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn và có sự phát triển mới trong nhận thức.
"Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé", vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.
Tổng Bí thư Tô Lâm, trong bài viết Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới đã nhấn mạnh: "Chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học - công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất. Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - "phương thức sản xuất số", trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số”.
Đó là những định hướng căn bản cho sự phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong thời đại và điều kiện mới và cũng là sứ mệnh lịch sử lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Hai là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Với sứ mệnh là đội tiên phong lãnh đạo cách mạng và Đảng cầm quyền, bước vào kỷ nguyên mới, Đảng không ngừng bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối. Cương lĩnh, đường lối dựa trên lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phù hợp với sự phát triển của thực tiễn đất nước và thế giới. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng tập trung lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa Cương lĩnh, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật. Đảng lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm yêu cầu phát triển của thời kỳ mới. Quán triệt chỉ dẫn của Bác Hồ: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng bộ máy tổ chức tinh, gọn, mạnh với đội ngũ cán bộ có trình độ năng lực, đạo đức, trách nhiệm và chuyên nghiệp và với khả năng ứng dụng khoa học công nghệ. Chú trọng những cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám vượt qua thách thức, vì lợi ích chung.
Nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm. Kinh tế phát triển thì đất nước phát triển. Đảng lãnh đạo đất nước có nền kinh tế phát triển cao, quy mô lớn dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại tạo năng suất cao, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh. Xây dựng công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, thương mại, dịch vụ phát triển cao. Không ngừng hội nhập kinh tế quốc tế. Định hình phương thức sản xuất mới, "phương thức sản xuất số". Phát triển kinh tế gắn với chiến lược phát triển khoa học, công nghệ.
Xây dựng một xã hội tốt đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc phải bảo đảm kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Xây dựng, hoàn thiện các chính sách xã hội về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập, nhà ở, chữa bệnh, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, không ai bị bỏ lại phía sau. Xây dựng hệ thống tiêu chí quốc gia hạnh phúc phù hợp với điều kiện Việt Nam. Tiếp tục phát triển 3 Chương trình quốc gia về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và xây dựng phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thực hiện tốt hơn chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa còn, dân tộc còn. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực để phát triển kinh tế. Đặt văn hóa ngang với chính trị và kinh tế. Phát triển văn hóa gắn với giáo dục, đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và xây dựng con người Việt Nam trong thời đại mới: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trí tuệ, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng tăng cường lãnh đạo quốc phòng, an ninh, bảo vệ tổ quốc từ sớm, từ xa. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Đảng lãnh đạo lực lượng vũ trang (quân đội, công an) tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Thực hiện chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ, 4 không. Không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ với các nước. Không tham gia liên minh quân sự. Không đi với nước này để chống nước kia. Không để nước ngoài lập căn cứ quân sự, đóng quân trên lãnh thổ Việt Nam.
Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ, là bạn, là đối tác tin cậy, tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Tăng cường ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, ngoại giao quốc phòng an ninh. Không ngừng mở rộng hội nhập quốc tế và tham gia vào quá trình toàn cầu hóa.
Lãnh đạo tốt các lĩnh vực trọng yếu trên đây, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng và dân tộc Việt Nam, tạo động lực cho sự phát triển nhanh, bền vững.
Ba là, đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng là một hệ thống các phương pháp, hình thức mà chủ thể lãnh đạo tác động vào đối tượng lãnh đạo, xử lý các mối quan hệ và dự báo chiến lược và sự chuyển biến cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến cách lãnh đạo và nhấn mạnh một số điểm. Đảng cần phải ra quyết định cho đúng. Tổ chức thực hiện cho tốt. Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát, giám sát. Coi trọng dự báo, thấy trước. Lắng nghe ý kiến của nhân dân. Chủ trương nào mà dân chúng cho là không đúng, không phù hợp thì cần nghiên cứu, xem xét để sửa chữa.
Trong lãnh đạo rất cần sự phát triển để thấy được cơ hội, thời cơ đồng thời thấy rõ những khó khăn, thách thức, nguy cơ. Chẳng hạn 4 nguy cơ mà Đảng nêu ra từ năm 1994 đến nay vẫn còn hiện hữu, có mặt còn phức tạp, nhất là nguy cơ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; nguy cơ "diễn biến hòa bình", "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Khoa học lãnh đạo và quản lý đòi hỏi nhận thức và xử lý đúng đắn các mối quan hệ và những khả năng diễn biến và phát triển. Cần thiết phải nắm vững quan điểm, phương pháp duy vật biện chứng với sự nhìn nhận khách quan, toàn diện, phát triển. Khắc phục phương pháp chủ quan, nóng vội, duy ý chí, áp đặt, giáo điều hoặc chủ nghĩa kinh nghiệm.
Để thực hiện tốt những mục tiêu định hướng quan trọng, Đại hội XIII nhấn mạnh: "Chúng ta cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: Giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; và đặc biệt, mối quan hệ được bổ sung lần này là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả. Tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện".
Sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ lịch sử và toàn bộ tiến trình cách mạng. Từ xác định đúng mục tiêu, nội dung nhiệm vụ đền cách thức, phương thức lãnh đạo là những vấn đề căn bản gắn liền khoa học lãnh đạo, quản lý và lý luận xây dựng Đảng được kiểm định từ chính thực tiễn của cách mạng. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử lãnh đạo đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Đảng phải đặt ra và xử lý đúng đắn hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn đất nước đang đặt ra.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Live: Vương quốc Anh gia nhập CPTPP: Động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình
Sau 5 năm kể từ khi có hiệu lực vào tháng 1 năm 2019, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy thương mại của Việt Nam với các thị trường trong khối, đặc biệt là các thị trường mà lần đầu tiên Việt Nam ký kết các FTA như Canada, Mexico và Peru.
Đáng chú ý, ngày 15/12 vừa qua, Vương quốc Anh đã chính thức gia nhập CPTPP, với sự gia nhập của Anh, số lượng thành viên của CPTPP đạt đến con số 12, bao gồm các thành viên đã tham gia trước đó là Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. Sau khi Anh gia nhập, CPTPP sẽ đóng góp khoảng 15% GDP toàn cầu.
Việc Vương quốc Anh tham gia Hiệp định CPTPP đánh dấu một chương mới trong quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam với Vương quốc Anh cũng như các thành viên khác trong khối CPTPP, mở ra cơ hội tăng cường thương mại, thu hút đầu tư và đẩy mạnh hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
Nhằm phân tích rõ hơn những thách thức song hành cùng cơ hội khi Vương quốc Anh gia nhập CPTPP, hôm nay, Báo Công Thương tổ chức tọa đàm trực tiếp “VƯƠNG QUỐC ANH GIA NHẬP CPTPP: ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH”
Trước khi diễn ra tọa đàm, (MC….) xin trân trọng giới thiệu các vị khách mời tham gia cùng chương trình:
- Ông Nguyễn Cảnh Cường - Cố vấn Công ty KTPC chuyên tư vấn tận dụng FTA, nguyên Tham tán Thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Vương quốc Anh
- Ông Hoàng Trọng Thủy - Chuyên gia Nông nghiệp Việt Nam
- Ông Nguyễn Huy Hoàng - Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Thái Nguyên

Thấy gì từ những cuộc cắt giảm lịch sử, tinh gọn bộ máy trong kỷ nguyên vươn mình
Bài viết của tác giả Nguyên Đình được đăng tải trong chuyên mục ngành Công Thương trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam - Báo Công Thương điện tử, là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Tinh gọn bộ máy trong kỷ nguyên vươn mình: Thấy gì từ những cuộc cắt giảm lịch sử?
Để kế thừa và phát huy sự nghiệp cách mạng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã tuyên bố thời điểm tinh gọn bộ máy trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Từ kinh nghiệm của Việt Nam và thế giới…
Xuyên suốt quá trình sắp xếp bộ máy từ thời kỳ Đổi mới (năm 1986) đến nay, việc sáp nhập những cơ quan trung ương, bao gồm bộ ngành có chức năng, nhiệm vụ tương đồng, trùng lặp đã nhiều lần được thực hiện. Tùy thuộc vào mỗi giai đoạn lịch sử, bộ máy Chính phủ đều được sắp xếp để phù hợp với thực tiễn.
Chính phủ từng có 36 bộ, ngành trong giai đoạn 1992-1997, sau đó tăng lên 48 đầu mối vào nhiệm kỳ 1997-2002. Sang giai đoạn 2002-2007, số lượng giảm xuống còn 38 đầu mối, gồm 26 bộ và 12 cơ quan thuộc Chính phủ.
Hội nghị triển khai các quyết định về công tác cán bộ của Bộ Công Thương năm 2023. Ảnh: Moit
Nhìn lại quá trình lịch sử, Bộ Công Thương cũng là một trong những ví dụ điển hình về tinh thần sắp xếp bộ máy chính trị để tạo động lực phát triển. Cụ thể, Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập Bộ Quốc dân Kinh tế (tiền thân của Bộ Công Thương) phụ trách các Sở Kinh tế, các Nha chuyên môn: Nha Thường vụ, Nha Khoáng chất và Kỹ nghệ, Nha Tiếp tế...
Hội nghị triển khai các quyết định về công tác cán bộ của Bộ Công Thương năm 2023. Ảnh: Moit
Để phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội từng thời kỳ, Bộ Công Thương cũng được chia tách, sáp nhập như Bộ Điện lực, Bộ Mỏ và Than; chia Bộ Lương thực và Thực phẩm thành hai bộ: Bộ Công nghiệp thực phẩm, Bộ Lương thực. Sau đó, các cơ quan thuộc ngành Công Thương hiện nay tiếp tục được tách theo lĩnh vực cụ thể như Bộ Ngoại thương và Uỷ ban Kinh tế đối ngoại; sáp nhập Tổng cục Điện tử và Kỹ thuật tin học vào Bộ Cơ khí và Luyện kim,…
Và đến tháng 7/2007, trong cuộc sắp xếp, sáp nhập bộ, ngành theo hướng bộ đa ngành, đa lĩnh vực, Bộ Công nghiệp sáp nhập với Bộ Thương mại thành Bộ Công Thương. Sự kiện này được diễn ra sau khi nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh phát biểu tại Lễ bế mạc Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tư khóa X vào cuối tháng 1/2007: "Đối với tổ chức bộ máy của Chính phủ, cần tiếp tục điều chỉnh cơ cấu tổ chức của Chính phủ theo tinh thần cải cách hành chính, bảo đảm tinh gọn và hợp lý hơn, đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Chính phủ trong giai đoạn mới, phù hợp với cơ chế quản lý trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả".
Cũng vào thời điểm đó, Bộ Văn hóa - Thông tin được tách thành 2 ngành, trong đó ngành văn hóa sáp nhập với Ủy ban Thể dục thể thao và Tổng cục Du lịch tạo nên Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch. Bên cạnh đó, Cục Báo chí, Cục Xuất bản được sáp nhập vào Bộ Bưu chính Viễn thông trở thành Bộ Thông tin và Truyền thông.
Sau nhiều lần sắp xếp, sáp nhập, bộ máy Chính phủ đã được giữ ổn định từ nhiệm kỳ 2007 - 2011 đến nay, với 30 đầu mối gồm 18 bộ, 4 cơ quan ngang bộ và 8 cơ quan thuộc Chính phủ.
Nhìn sang thế giới, việc tinh gọn bộ máy đã tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Điển hình, Nhật Bản và Trung Quốc là hai quốc gia có hệ thống chính trị, văn hóa và kinh tế khác biệt, nhưng cả hai đều có những nỗ lực đáng chú ý trong việc tinh gọn bộ máy nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời đại mới.
Năm 2001, Nhật Bản thực hiện một cuộc cải tổ lớn khi số lượng các bộ và cơ quan trung ương giảm từ 128 cục xuống còn khoảng 90 cục. Các bộ có chức năng tương đồng được sáp nhập để tránh chồng chéo. Chẳng hạn, Bộ Y tế và Bộ Phúc lợi sáp nhập thành Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi. Bộ Giao thông và Bộ Xây dựng sáp nhập thành Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch.
Cùng với đó, Nhật Bản ứng dụng công nghệ thông tin, triển khai chính phủ điện tử từ những năm 2000, giúp giảm bớt các thủ tục giấy tờ phức tạp và cắt giảm nhân sự không cần thiết. Chính phủ quốc gia này cũng đặt ra giới hạn biên chế, đồng thời áp dụng cơ chế đánh giá năng lực để giảm số lượng công chức, tập trung vào chất lượng. Tinh gọn bộ máy giúp Nhật Bản giảm chi tiêu hành chính và tăng hiệu quả quản lý trong các lĩnh vực như phúc lợi, giáo dục và giao thông.
Về Trung Quốc, để tinh gọn bộ máy, quốc gia này đã thực hiện hàng loạt cải cách kể từ cuối thế kỷ XX. Năm 2018, Quốc vụ viện Trung Quốc quản lý một hệ thống khoảng 40 cơ quan bao gồm các bộ và ủy ban. Tuy nhiên, sau cuộc cải cách, Trung Quốc đã tiến hành sáp nhập và giảm số lượng các cơ quan này xuống chỉ còn 26.
Đồng thời, Chính quyền Trung ương Trung Quốc yêu cầu giảm số lượng cán bộ trong các cơ quan chính phủ, đặc biệt ở cấp địa phương. Điều này khuyến khích xã hội hóa một số dịch vụ công.
Từ những ví dụ trong nước và quốc tế, có thể thấy rằng, việc tinh gọn bộ máy không chỉ là yêu cầu tất yếu của sự phát triển mà còn trở thành yếu tố then chốt giúp tối ưu hóa hiệu quả quản lý và đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại. Đối với Việt Nam, quá trình sắp xếp, sáp nhập các bộ, ngành đã tạo nên những bước tiến quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị và cải thiện khả năng quản lý nhà nước. Tuy nhiên, để tiếp tục phát huy những thành tựu này, cần kiên định với mục tiêu xây dựng một bộ máy tinh gọn, hiệu quả, song song với việc ứng dụng công nghệ số và cải cách hành chính, nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của thời đại mới.
Trong khi đó, bài học từ Nhật Bản và Trung Quốc cho thấy rằng, việc xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tránh chồng chéo và lãng phí nguồn lực là yếu tố "sống còn" trong việc tinh gọn bộ máy. Đồng thời, ứng dụng công nghệ thông tin không chỉ góp phần giảm thiểu thủ tục hành chính mà còn nâng cao tính minh bạch, tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước. Đặc biệt, lấy người dân làm trung tâm luôn là kim chỉ nam trong mọi cải cách, bởi cuối cùng, mục tiêu lớn nhất của bộ máy nhà nước chính là phục vụ nhân dân một cách hiệu quả và thiết thực.
Nhìn về tương lai theo thực tiễn tại Việt Nam, việc tinh gọn bộ máy không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là chiến lược lâu dài để xây dựng một hệ thống chính trị hiện đại, minh bạch và linh hoạt, đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi ngày càng cao của sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Đến chỉ đạo mang tính lịch sử
Phát biểu tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ngày 25/11, Tổng Bí thư Tô Lâm cho biết, Ban Chấp hành Trung ương Đảng yêu cầu, xác định quyết tâm chính trị cao nhất trong triển khai chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là cuộc cách mạng về tinh gọn, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, cần thống nhất cao về nhận thức và hành động trong toàn Đảng và cả hệ thống chính trị.
Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, các cấp, các ngành, trước hết là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cần gương mẫu, quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ được giao theo tinh thần "vừa chạy vừa xếp hàng". Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở; quyết tâm hoàn thành việc tổng kết Nghị quyết số 18/NQ-TW và báo cáo Ban Chấp hành Trung ương Đảng về phương án sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, hệ thống chính trị trong quý I/2025.
Như vậy, việc sắp xếp, tổ chức lại hệ thống chính trị lần này được nhận định rằng có tính cấp bách, không thể chậm trễ. Theo chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phương án sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, hệ thống chính trị sẽ được hoàn thành vào quý I/2025. Mốc thời gian này có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi chỉ hơn nửa năm nữa, Đại hội Đảng các cấp cơ sở sẽ bắt đầu diễn ra, tiến tới Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIV dự kiến diễn ra vào năm 2026.
Nếu phương án triển khai muộn, việc sắp xếp công tác nhân sự sẽ trở nên phức tạp, đi ngược với quy luật. Triển khai tinh gọn bộ máy trước khi Đại hội Đảng lần thứ XIV diễn ra góp phần giúp hệ thống chính trị đủ điều kiện để bước vào giai đoạn mới, và như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, đó là "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc".
Đáng chú ý, tinh thần "vừa chạy vừa xếp hàng", Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở khi thực hiện tinh gọn hệ thống chính trị không có nghĩa là công cuộc sẽ diễn ra một cách cập rập, khó kiểm soát. Mà ngược lại, hoạt động triển khai tinh gọn gấp rút nhưng vẫn đảm bảo thông suốt từ Trung ương đến địa phương, không cầu toàn mà làm tới đâu rút kinh nghiệm tới đó. Điều đó chứng tỏ tính sáng tạo, tính khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc cách mạng lần này.
Vì vậy, theo Tổng Bí thư Tô Lâm, quá trình thực hiện cần theo dõi để phát hiện, nhân rộng những cách làm hay, hiệu quả, uốn nắn và kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh, đảm bảo việc triển khai theo đúng mục tiêu, yêu cầu và tiến độ đã đề ra.
Với quyết tâm chính trị cao, người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đã có tuyên bố mang tính lịch sử về cuộc sắp xếp, tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị. Mô hình tổ chức tổng thể hệ thống chính trị của nước ta từ năm 1945 đến nay gồm ba khối Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cùng các tổ chức chính trị xã hội.
Cơ chế vận hành Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ vẫn sẽ là nguyên tắc bao trùm khi tinh gọn bộ máy. Tuy nhiên, sau hàng chục năm vận hành, hệ thống chính trị đã xuất hiện những tồn tại, một số vấn đề không còn phù hợp với thực tiễn, dẫn tới việc cần soi xét kỹ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức để có những quyết định chính xác, hiệu quả.
Vì cuộc cách mạng có thể đi kèm với những hy sinh lợi ích cá nhân. Nên Tổng Bí thư Tô Lâm đã đề cập, nhiệm vụ sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy là công việc rất khó khăn, nhạy cảm, phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi con người trong từng tổ chức. Do đó, đòi hỏi sự đoàn kết, quyết tâm cao, dũng cảm và cả sự hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung.
Kế thừa và đột phá trong thực hiện nghị quyết của Đảng
Theo chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, việc tinh gọn bộ máy, hệ thống chính trị sẽ bắt đầu bằng việc tổng kết Nghị quyết số 18/NQ-TW ngày 25/10/2017. Đây được nhận định là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Chủ trương này chỉ ra rằng việc sắp xếp lại hệ thống chính trị để bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc không chỉ có tính nhất thời, mà là sự kế thừa và phát huy những di sản của sự nghiệp cách mạng của Đảng ta.
Nghị quyết số 18/NQ-TW tại Hội nghị lần thứ XI Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII cũng là sự đúc kết tỉ mỉ, nhìn nhận rõ, minh bạch tồn tại của hệ thống chính trị. Nghị quyết nêu rằng, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức còn chồng chéo, trùng lặp. Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý và đồng bộ. Vẫn còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ…
Cùng với đó, mặc dù đã quan tâm đầu tư nhiều cho kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ quản lý nhưng hiệu quả tác động vào việc tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động và tinh giản biên chế chưa tương xứng. Số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước rất lớn, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp công lập, người hoạt động không chuyên trách cấp xã và ở thôn, tổ dân phố; chính sách tiền lương còn bất cập.
Đặc biệt, tinh thần gấp rút thực hiện tinh gọn bộ máy chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm cũng thể hiện sự nhất quán theo quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết. Cụ thể, nghị quyết nêu rõ việc sắp xếp bộ máy cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả. Lãnh đạo tập trung, thống nhất; thực hiện thường xuyên, liên tục, tích cực, mạnh mẽ, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình, bước đi vững chắc, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài. Những việc đã rõ, cần thực hiện thì thực hiện ngay; những việc mới, chưa được quy định, hoặc những việc đã có quy định nhưng không còn phù hợp thì mạnh dạn chỉ đạo thực hiện thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, từng bước hoàn thiện, mở rộng dần, không cầu toàn, không nóng vội; những việc chưa rõ, phức tạp, nhạy cảm, còn có ý kiến khác nhau thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để có chủ trương, giải pháp phù hợp.
Nhìn lại lịch sử, sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, vị lãnh tụ V.I. Lênin cũng đặc biệt quan tâm đến xây dựng tổ chức hệ thống chính trị của chế độ mới. Người đã để lại những chỉ dẫn mang tính lý luận, thực tiễn vẫn còn có giá trị thời sự đến ngày nay về tầm quan trọng, tính cấp bách, nguyên tắc, phương hướng, cách thức tiến hành xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí nào khác ngoài tổ chức. Nhưng V.I.Lênin cũng cảnh báo rằng, lĩnh vực trọng yếu nhất và khó khăn nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ tổ chức; rằng “chính ở chỗ này, ở chỗ làm nhiệm vụ quan trọng nhất và khó khăn nhất này, mà chúng ta đã gặp nhiều thất bại nhất và mắc nhiều sai lầm nhất”.
Theo nhà lý luận chính trị V.I Lênin, một hệ thống tổ chức có nhiều bê trễ, thậm chí hư hỏng thì không những không thực hiện được mục tiêu tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội mà còn làm mất lòng tin của quần chúng. Do đó, điều quan trọng là tổ chức cần chọn những người xứng đáng và phải kiểm tra việc chấp hành thực tiễn. Bởi chỉ khi nào biểu hiện được đúng ý nguyện của nhân dân thì mới có thể quản lý nhà nước hiệu quả.
Như vậy, có thể kết luận rằng, để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì hệ thống chính trị cần đảm bảo các yếu tố: Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả như trong bài viết mới nhất của Tổng Bí thư Tô Lâm được truyền thông trong nước và quốc tế dành nhiều lời ca ngợi.
Hoàn thiện hệ thống chính trị là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết, để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua việc thực hiện mục tiêu này, Đảng và Nhà nước ta sẽ tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo, dẫn dắt đất nước đi lên, đảm bảo sự phát triển bền vững và thịnh vượng cho quốc gia và nhân dân. Đây cũng là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị và toàn dân, đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm cao của mỗi cá nhân và tổ chức.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Chính luận 35 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Khu thương mại tự do đóng góp quan trọng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Tại Diễn đàn Logistics Việt Nam 2024, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên khẳng định, khu thương mại tự do sẽ đóng góp quan trọng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Sáng ngày 2/12, Diễn đàn Logistics Việt Nam 2024 đã được khai mạc. Sự kiện do Bộ Công Thương phối hợp với UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tổ chức.
Sự kiện có sự tham dự của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên; Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Trần Hồng Minh; Bí thư Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu Phạm Viết Thanh. Cùng với đó là hơn 500 đại biểu gồm lãnh đạo các Bộ, ngành liên quan; lãnh đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Đông Tây Nam Bộ; đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các hiệp hội, doanh nghiệp dịch vụ logistics, sản xuất và xuất nhập khẩu trong và ngoài nước, các chuyên gia và các cơ quan truyền thông, báo chí trên cả nước.
Phát biểu khai mạc sự kiện, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, logistics là ngành dịch vụ được ví như những “mạch máu”của nền kinh tế, có vai trò quan trọng trong kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực phát triển năng động của thế giới, nơi luồng hàng hoá tập trung giao lưu mạnh và nền kinh tế có độ mở lớn (trên 200%), cùng 17 Hiệp định thương mại tự do đã được ký kết, thực thi với gần 70 quốc gia, vùng lãnh thổ (trong đó bao gồm hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới, chiếm 90% GDP toàn cầu); kim ngạch xuất nhập khẩu và thương mại điện tử luôn tăng trưởng ở mức hai con số, Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường có nhiều tiềm năng, điều kiện để phát triển dịch vụ logistics.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, thời gian qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ngành dịch vụ logistics. Với sự quan tâm, chỉ đạo sát sao, quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ; sự vào cuộc tích cực, hiệu quả của các ban, bộ, ngành và các địa phương; đặc biệt là nỗ lực vượt bậc của cộng đồng doanh nghiệp, ngành dịch vụ logistics nước ta đã có những bước phát triển khá mạnh (tăng bình quân 14-16%/năm), từng bước khẳng định được thương hiệu, vị thế của Ngành trong khu vực và thế giới. Năm 2024, Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá, xếp hạng thuộc Top 10 thị trường logistics mới nổi; Top 4 thế giới về Chỉ số cơ hội logistics và Top 43 về Chỉ số hiệu quả logistics.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngành dịch vụ logistics Việt Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước; chi phí logistics còn cao, năng lực cạnh tranh thấp; sự thiếu hụt về nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và thiếu tính kết nối về hạ tầng là những “điểm nghẽn” lớn, kìm hãm sự phát triển của dịch vụ logistics thời gian qua. Bên cạnh đó, những biến đổi về địa chính trị và các xu hướng kinh doanh mới (như dịch chuyển chuỗi cung ứng, thương mại điện tử xuyên biên giới, tiêu chuẩn phát triển xanh và bền vững) cùng với sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt cũng đặt ra nhiều thách thức mới đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và dịch vụ logistics nói riêng.
Tiếp nối thành công của các năm trước, Diễn đàn năm nay được tổ chức với chủ đề "Khu thương mại tự do - Giải pháp đột phá thúc đẩy tăng trưởng logistics" nhằm phát đi thông điệp mạnh mẽ của Chính phủ về việc thu hút, khuyến khích đầu tư, phát triển các Khu thương mại tự do với những chính sách đủ mạnh, khả thi và cơ chế thông thoáng, hấp dẫn để tạo động lực đột phá thúc đẩy phát triển kinh tế nói chung và ngành dịch vụ logistics nói riêng. Bởi, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Khu thương mại tự do là một trong những lợi thế cạnh tranh quan trọng và là công cụ hữu hiệu để các quốc gia tận dụng tối đa lợi ích mà quá trình hội nhập mang lại. Thực tế những năm qua, mô hình Khu thương mại tự do đã được nhiều quốc gia (như Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc, UAE…) áp dụng rất thành công, giúp giảm giá thành, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm và tối ưu hóa dòng chảy hàng hóa, nâng cao năng lực logistics, thu hút đầu tư nước ngoài.
Với vị trí địa lý chiến lược và tiềm năng, thế mạnh về phát triển hạ tầng cảng biển nước sâu, sân bay quốc tế, các đầu mối giao thông đường bộ, đường sắt với các nước trong khu vực và thế giới, Việt Nam hội đủ điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển các khu thương mại tự do quy mô lớn và hiện đại. Bộ Công Thương, với vai trò đầu mối quản lý nhà nước về dịch vụ logistics, đang trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến năm 2050 ; theo đó, dự thảo Chiến lược đã đề xuất nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt (trong đó có giải pháp về xây dựng Khu thương mại tự do) nhằm hiện thực hoá mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về logistics, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là những nội dung rất quan trọng, có tính thời sự thiết thực không chỉ đối với sự phát triển của ngành dịch vụ logistics Việt Nam, mà còn quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị các đại biểu từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn ở mỗi ngành, lĩnh vực, địa phương, hãy tập trung trao đổi, thảo luận để làm rõ những kết quả đạt được; những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân (nhất là nguyên nhân chủ quan); rút ra các bài học kinh nghiệm trong phát triển dịch vụ logistics ở nước ta thời gian qua, cũng như nhận diện những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen; từ đó, hiến kế, kiến nghị với cấp có thẩm quyền về các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp dịch vụ logistics phát huy nội lực, tận dụng cơ hội để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh, xây dựng thương hiệu, đón đầu các xu hướng, chính sách thành lập các Khu thương mại tự do tại Việt Nam trong thời gian tới; đồng thời đề xuất các cơ chế chính sách đủ mạnh, khả thi để khuyến khích, thu hút đầu tư phát triển các Khu thương mại tự do, tạo động lực đột phá mới thúc đẩy ngành logistics Việt Nam phát triển nhanh, bền vững.