Phân định rõ miền núi, vùng cao để xây dựng và áp dụng chính sách phát triển kinh tế xã hội
Cơ chế - Chính sách Thứ năm, 19/08/2021 - 11:11
Cơ sở để xây dựng chính sách phù hợp
Hiện nay, vùng miền núi chiếm 3/4 diện tích cả nước, địa bàn cư trú chủ yếu của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) là vùng có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH ) và bảo đảm an ninh - quốc phòng của đất nước.
Trong khuôn khổ chương trình Phiên họp thứ 2 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), vừa qua, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến đối với báo cáo của Hội đồng Dân tộc về việc phân định miền núi, vùng cao.
Báo cáo về việc phân định miền núi, vùng cao, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Y Thanh Hà Niê K’đăm cho hay, kết quả phân định là các căn cứ quan trọng để Nhà nước ban hành một số cơ chế, chính sách ưu tiên, hỗ trợ đầu tư nhằm phát triển KT-XH các địa phương miền núi, ổn định và nâng cao đời sống cho đồng bào miền núi, nhất là đồng bào DTTS.
Theo đó, từ năm 1996 đã hình thành hai phân định là miền núi, vùng cao và phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển. Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, Chính phủ đã ban hành thêm một số hình thức phân loại: Phân định địa bàn khu vực biên giới trên đất liền và trên biển; phân loại xã bãi ngang ven biển và hải đảo; phân loại đơn vị hành chính cấp xã vùng khó khăn; phân loại đơn vị hành chính cấp xã/phường/thị trấn. Mỗi phân định, phân loại có các tiêu chí khác nhau, mục đích, phạm vi, đối tượng để ban hành chính sách trong lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau.
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Y Thanh Hà Niê K’đăm phát biểu tại phiên họp |
Về kết quả đạt được, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Y Thanh Hà Niê K’đăm nêu rõ, việc phân định xã, huyện, tỉnh là miền núi, vùng cao là cần thiết, để làm cơ sở, căn cứ cho việc tổ chức các giải pháp quản lý nhà nước và xây dựng một số chính sách phù hợp về đầu tư, phát triển kinh tế, xã hội nhằm ổn định đời sống cho người dân.
“Kết quả phân định đã được thể hiện bằng quyết định công nhận xã, huyện, tỉnh là miền núi, vùng cao; đã và đang là các căn cứ quan trọng phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước và xây dựng cơ chế, pháp luật, chính sách, tổ chức thực hiện chính sách trên địa bàn xã, huyện, tỉnh là miền núi, vùng cao” - Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Y Thanh Hà Niê K’đăm chỉ ra.
Tuy nhiên, theo Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Y Thanh Hà Niê K’đăm, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập. Cụ thể, tiêu chí phân định miền núi, vùng cao chưa thực sự bảo đảm tính khoa học, tính thực tiễn, tính phù hợp và tính đồng bộ giữa một số phân định; Bên cạnh đó, trong hệ thống văn bản pháp luật, chính sách hiện nay, nhiều văn bản pháp luật quy định phạm vi quá rộng cho nhiều vùng và chưa thống nhất về nội hàm các khái niệm dẫn đến việc quy định đối tượng chính sách chưa cụ thể theo tính chất chính sách, đôi khi chồng lấn, khó cụ thể hóa và tổ chức thực hiện làm giảm hiệu quả chính sách.
Công tác tổng kết, kiểm tra, đánh giá việc phân định chưa được thực hiện kịp thời, việc phân định xã, huyện, tỉnh là miền núi, vùng cao được thực hiện từ năm 1993 đến nay đã 28 năm nhưng các cơ quan quản lý, chủ trì chưa có hoạt động tổng kết, đánh giá; cơ sở pháp lý của văn bản quy định tiêu chí miền núi, vùng cao chưa bảo đảm...
Từ những tồn tại hạn chế trên, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Y Thanh Hà Niê K’đăm đề nghị, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội giao Chính phủ tổng kết đánh giá toàn diện hiệu quả của việc phân định miền núi, vùng cao; phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển; cùng với việc xem xét các hình thức phân định khác. Trong đó, xác định một cơ quan đầu mối quản lý chủ trì theo dõi chung về vấn đề phân định.
Bên cạnh đó tiến hành nghiên cứu, xây dựng và ban hành tiêu chí phân định miền núi, vùng cao; rà soát phân định, bảo đảm cơ sở pháp lý cũng như tính thống nhất, đồng bộ để thực hiện chính sách, pháp luật. Đồng thời chỉ đạo các bộ, ngành liên quan rà soát lại các văn bản chính sách, pháp luật có liên quan đến việc điều chỉnh đối tượng là miền núi, vùng cao.
Đảm bảo tính công khai, minh bạch
Phát biểu tại phiên họp, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Hầu A Lềnh bày tỏ sự đồng tình với báo cáo giám sát về tình hình cũng như thực tế của Hội đồng Dân tộc. Giải trình một số nội dung tại phiên họp, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Hầu A Lềnh cho biết, sau khi có Nghị quyết số 22/NQ-TW của Bộ Chính trị, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 72. Từ thời điểm ban hành đến năm 2009 đã có 9 lần công nhận tiêu chí miền núi và vùng cao như trong báo cáo của Hội đồng Dân tộc đã nêu. Bộ tiêu chí này được công nhận theo từng giai đoạn vừa qua là cơ sở để hoạch định các chính sách của Đảng và Nhà nước cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng cao.
Từ năm 1996 đến nay, Chính phủ đã chỉ đạo chủ yếu phân định và bổ sung thêm một số tiêu chí mới, ngoài tiêu chí vùng cao còn có tiêu chí phân định theo trình độ phát triển của các dân tộc, trong đó có bổ sung thêm nội hàm vùng đồng bào DTTS, từ đó ngoài miền núi vùng cao có thêm vùng đồng bào DTTS bằng các chính sách chủ trương của Đảng trong thời gian gần đây.
Sau một thời gian thực hiện, đến năm 2014, tại buổi làm việc giữa Thủ tướng Chính phủ với Hội đồng Dân tộc và Uỷ ban Dân tộc đã thống nhất và có thông báo Kết luận số 286/TB-VPCP. Từ đó đã thống nhất các bộ, ngành, địa phương thực hiện thống nhất các chính sách đối với thôn, bản, xã, vùng DTTS và miền núi theo tiêu chí quy định tại Quyết định 30/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Từ đó đến nay thực hiện theo tiêu chí phân định là theo trình độ phát triển.
Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Hầu A Lềnh: Có thể nói, bộ tiêu chí đã bao hàm hết tất cả tuy nhiên về mặt pháp lý, tuy nhiên, Bộ trưởng cho rằng, có Nghị quyết của Quốc hội, có Nghị quyết của Bộ Chính trị và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ nhưng khi ban hành bộ tiêu chí mới để cập nhật tích hợp thì chưa có Nghị quyết thay thế và chưa có đánh giá một cách toàn diện.
Trên cơ sở đó, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Hầu A Lềnh đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo Hội đồng Dân tộc phối hợp với Uỷ ban Dân tộc cùng các bộ, ngành liên quan nghiên cứu đánh giá kĩ hơn để kiến nghị với các cấp có thẩm quyền nhằm tích hợp, điều chỉnh, bổ sung đánh giá toàn diện hơn ngoài việc phân định các xã theo trình độ phát triển còn có các hình thức phân định khác không, sau khi đánh giá sẽ có báo cáo cụ thể.
Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Nguyễn Lâm Thành |
Báo cáo bổ sung thêm, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Nguyễn Lâm Thành nêu rõ, phân định miền núi, vùng cao là phân định theo hình thức tự nhiên mang yếu tố bất biến nên việc xác định miền núi, vùng cao cực kì quan trọng, đó là cơ sở để ban hành một số quy định, chế độ, chính sách pháp luật. Những vấn đề của miền núi vùng cao liên quan đến các quy định về bộ máy, tổ chức chính quyền địa phương và việc phân bổ ngân sách. Chính từ những yếu tố bất biến của điều kiện tự nhiên miền núi, vùng cao cho nên cần phải có sự phân định.
Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Nguyễn Lâm Thành đề nghị cần xác định đầu mối quản lý chung liên quan đến công tác quản lý phân định trong đó có phân định miền núi, vùng cao. Bên cạnh đó phải có một cơ quan theo dõi một cách thống nhất liên quan đến thông tin, báo cáo, vấn đề tổng kết đánh giá, thực hiện chỉ đạo đánh giá để bảo đảm tính công khai minh bạch trong việc áp dụng chính sách.
Đối với tiêu chí miền núi vùng cao, Phó Chủ tịch Hội đồng Nguyễn Lâm Thành đề nghị nghiên cứu, xem xét lại cho phù hợp và tiến hành rà soát phân định lại. Nhiệm vụ nào liên quan đến bộ, ngành nào thì giao cho bộ ngành đó.
Sau ý kiến của các đại biểu, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn đề nghị Hội đồng Dân tộc tiếp tục phối hợp với Uỷ ban Dân tộc tiến hành tổng kết đánh giá toàn diện hiệu quả của việc phân định miền núi, vùng cao cùng với việc xem xét các hình thức phân định khác; rà soát các văn bản chính sách pháp luật có liên quan đến miền núi, vùng cao, đảm bảo tính thống nhất đồng bộ với các quy định trong hệ thống chính sách pháp luật hiện hành. Đồng thời nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung tiêu chí và thực hiện phân định miền núi, vùng cao làm cơ sở thống nhất, đồng bộ để thực hiện chính sách pháp luật trong giai đoạn tiếp theo.