Quan hệ qua biên giới: Thúc đẩy, duy trì dòng chảy thương mại
Kinh tế - Hội nhập Thứ tư, 18/08/2021 - 10:56
Linh hoạt thông quan
Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài khoảng 4.924km tiếp giáp với Trung Quốc, Lào, Campuchia đi qua 25 tỉnh biên giới của Việt Nam (435 xã, phường, thị trấn biên giới thuộc 103 huyện, thị xã, thành phố biên giới của Việt Nam), 2 tỉnh/khu tự trị của Trung Quốc, 10 tỉnh của Lào và 10 tỉnh của Campuchia. Tuyến biên giới với các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia được đánh giá là cửa ngõ quan trọng trong giao lưu phát triển kinh tế - xã hội giữa các địa phương biên giới của Việt Nam với các địa phương biên giới của nước láng giềng; giữa Việt Nam với các nước có chung đường biên giới và các nước trong khu vực.
Quan hệ tốt đẹp giữa các tỉnh biên giới đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại tại khu vực biên giới |
Trong thời gian qua, chính quyền các tỉnh biên giới luôn chủ động, tích cực duy trì và phát triển quan hệ hợp tác tốt đẹp với chính quyền các tỉnh biên giới phía Lào, Campuchia, Trung Quốc. Chính quyền các tỉnh biên giới đã duy trì cơ chế gặp gỡ, làm việc thường niên với các tỉnh láng giềng để trao đổi, đánh giá kết quả hợp tác cũng như giao lưu, tăng cường sự hiểu biết, gắn kết. Các cơ chế hợp tác định kỳ có thể kể đến như Hội đàm 4 tỉnh biên giới phía Bắc (Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Giang, Cao Bằng) với Quảng Tây; gặp gỡ thường niên giữa chính quyền Thanh Hóa với chính quyền Hủa-phăn, chính quyền Nghệ An với Xiêng-khoảng, Kontum với At-ta-pư, Tây Ninh với Pray Viêng, Tbaung Khmum, Svay Riêng…
Bộ Công Thương nhận định, quan hệ tốt đẹp giữa các tỉnh biên giới đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại tại khu vực biên giới, nhất là trong bối cảnh dịch Covid-19 bùng phát. Đặc biệt, thời gian qua, các tỉnh biên giới đã thực hiện tốt công tác quản lý cửa khẩu, kịp thời cùng nước bạn điều chỉnh, kéo dài thời gian thông quan ở cửa khẩu hoặc mở thêm lối thông quan để giải phóng hàng nông sản cho cả nước trong những thời điểm ùn tắc ở cửa khẩu.
Đáng kể, ngay từ đầu năm 2020 khi dịch Covid-19 xuất hiện ở Trung Quốc và sau đó là Việt Nam, Campuchia, Lào, các địa phương biên giới đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương và các Bộ, ngành liên quan để nhanh chóng hợp tác với các cơ quan từ trung ương đến địa phương biên giới các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia nhằm sáng tạo, xây dựng và thống nhất triển khai mô hình thông quan phòng dịch tại các cửa khẩu biên giới đường bộ. “Cùng với việc điều chỉnh linh hoạt mô hình thông quan qua các giai đoạn đến nay, việc lưu chuyển hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới đường bộ trên tuyến biên giới phía Bắc, phía Tây và Tây Nam được đảm bảo thông suốt, không gián đoạn”- đại diện Bộ Công Thương cho biết.
Khẳng định địa bàn quan trọng về hợp tác, giao lưu kinh tế
Dự báo những năm tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục vận động theo xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều diễn biến phức tạp. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng song gặp nhiều trở ngại, thách thức. Kinh tế thế giới bắt đầu phục hồi và quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc diễn ra gay gắt. Các đối tác phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc tăng cường tận dụng các cơ chế hợp tác tiểu vùng Mê Công để hợp tác với các nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar. ASEAN tiếp tục đẩy mạnh các sáng kiến kết nối và hội nhập khu vực trong đó đặc biệt là đẩy mạnh Kế hoạch tổng thể kết nối hạ tầng ASEAN.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam nói chung và các khu vực biên giới của Việt Nam có cơ hội đón đầu luồng đầu tư dịch chuyển khỏi Trung Quốc. Thương mại biên giới giữa Việt Nam với Lào, Việt Nam với Campuchia và Việt Nam với Trung Quốc cũng có nhiều điều kiện tăng trưởng nhanh về quy mô, giá trị. Bên cạnh đó, Việt Nam còn có nhiều khả năng tận dụng hỗ trợ của các đối tác phát triển và ASEAN trong việc đầu tư các tuyến đường giao thông kết nối các cửa khẩu biên giới giữa Việt Nam và Lào, Việt Nam và Campuchia, phục vụ phát triển kinh tế khu vực biên giới.
Lưu chuyển hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới đảm bảo thông suốt, không gián đoạn |
Ở trong nước, sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và thời đại kinh tế số tiếp tục mang đến nhiều cơ hội cũng như khó khăn, thách thức cho sự phát triển. Trong đó, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu xa hơn về kinh tế; tình hình Biển Đông, thiên tai, dịch bệnh tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường, đại dịch Covid-19 nguy cơ bùng phát vẫn ở mức cao; các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng các vấn đề về dân tộc, tôn giáo để chống phá... sẽ là những thách thức lớn tác động không nhỏ đến việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế của đất nước nói chung và của khu vực biên giới nói riêng.
Theo tầm nhìn phát triển kinh tế khu vực biên giới đề ra, Việt Nam tiếp tục thúc đẩy phát triển kinh tế các khu vực biên giới, đến năm 2030 thành các khu vực tương đối phát triển, kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, đảm bảo kết nối thuận tiện giữa các cửa khẩu biên giới với trung tâm phát triển của tỉnh và các vùng, lãnh thổ, đảm bảo kết nối dễ dàng với các vùng, miền trong cả nước và quốc tế. Xây dựng các khu vực biên giới trở thành địa bàn quan trọng về hợp tác và giao lưu kinh tế quốc tế của vùng và cả nước. Tiếp tục khẳng định vai trò "phên dậu" vững chắc của Tổ quốc; củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, kết hợp với phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị.
Để thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực biên giới theo mục tiêu đề ra, nhiều giải pháp cụ thể đã được vạch rõ, trong đó sẽ thúc đẩy tận dụng tốt các cơ chế hợp tác đa phương bao gồm: Hợp tác về Tam giác phát triển ba nước Campuchia - Lào - Việt Nam (CLV), Hợp tác phát triển bốn nước Campuchia -Lào - Myanmar - Việt Nam (CLMV), Hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS), Hợp tác Mê Kông – Nhật Bản, Hợp tác Mê Kông – Hàn Quốc, Hợp tác Hạ nguồn Mê Kông – Mỹ, Hợp tác Mê Kông – Sông Hằng, Hợp tác ASEAN cũng như quan hệ đối tác với các nước láng giềng.
Qua đó, nhằm duy trì mô hình thông quan phòng dịch, đảm bảo lưu thông hàng hóa xuất nhập khẩu thông suốt, không gián đoạn; thu hút đầu tư vào các khu kinh tế cửa khẩu, khu hợp tác kinh tế qua biên giới; đầu tư xây dựng, vận hành, kinh doanh chợ, kho hàng, trung tâm logistics tại khu vực biên giới. Kêu gọi thu hút vốn đầu tư ODA từ các đối tác, các quỹ trong và ngoài khu vực cho các dự án xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng tại khu vực biên giới hoặc các dự án kết nối các tỉnh biên giới giữa Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia; kết nối Việt Nam - Lào: dự án xây dựng tuyến đường cao tốc Hà Nội - Viêng-chăn (đi qua cửa khẩu Thanh Thủy, Nghệ An); nâng cấp quốc lộ 8 nối Bô-ly-khăm-xay qua cửa khẩu Cầu Treo - Nậm Phao đi cảng Cửa Lò (Nghệ An) và cảng Vũng Áng (Hà Tĩnh); kết nối với Campuchia: xây dựng các tuyến đường cao tốc Phnom Penh – Bavet nhằm kết nối với tuyến Mộc Bài - TP. Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, kịp thời nâng cấp và mở mới các cặp cửa khẩu để đáp ứng nhu cầu giao thương của nhân dân, doanh nghiệp các nước chung biên giới. Theo phân tích của Bộ Công Thương, việc kịp thời nâng cấp, mở mới các cặp cửa khẩu, lối mở biên giới là rất cần thiết nhằm: Đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế, hiện thực hóa cam kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia; đáp ứng nhu cầu giao thương của nhân dân, doanh nghiệp hai bên biên giới; giảm tải thủ tục của cả các lực lượng hải quan và các cơ quan hữu quan khác nhằm giảm tình trạng tắc nghẽn tại một số cửa khẩu quốc tế hiện nay.
Bộ Công Thương đề nghị, Bộ Ngoại giao và các Bộ cần phối hợp với các tỉnh rà soát, hoàn thiện thủ tục mở mới, nâng cấp các cặp cửa khẩu đã có chủ trương của Chính phủ, đã có đề xuất của các tỉnh trên cơ sở thống nhất với tỉnh biên giới láng giềng. Bên cạnh đó, các tỉnh biên giới cần theo dõi sát sao tình hình thông quan hàng hóa, tại các khu vực cửa khẩu trên địa bàn, dự báo về lưu lượng thông quan hàng hóa trong các năm tới để kịp thời kiến nghị, đề xuất việc nâng cấp hoặc mở mới cửa khẩu khi cần thiết. |