Khẳng định bản sắc văn hoá Việt Nam trong tiến trình hội nhập
Cơ chế - Chính sách Thứ hai, 22/11/2021 - 14:35
Văn hóa- hạt nhân sáng tạo của tinh thần dân tộc
Nhấn mạnh đến bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa, giáo dục của Quốc hội - nhấn mạnh, đó là nói đến phần giá trị tinh hoa nhất, những “giá trị gốc” và riêng có của nền văn hóa dân tộc mà không thể lẫn được vào bất kỳ một nền văn hóa nào. Đó chính là hạt nhân sáng tạo của tinh thần dân tộc, được để lại, lưu giữ và trao truyền qua nhiều thế hệ, bảo đảm cho sự trường tồn của dân tộc. “Có thể thấy rằng, bản sắc văn hóa Việt Nam là sự kết tinh của mối quan hệ tổng hòa và tương tác giữa môi trường - con người - văn hóa, là toàn bộ những sản phẩm, những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc, được sáng tạo trong quá trình hoạt động của con người Việt Nam nhằm vươn tới đỉnh cao giá trị chân - thiện - mỹ”- PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho hay.
Văn hóa là toàn bộ những sản phẩm, những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc |
Tuy nhiên, bản sắc văn hóa dân tộc đang đứng trước những thách thức mới từ bối cảnh hội nhập. Theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn, quá trình hội nhập quốc tế của một quốc gia, đã xuất hiện xu hướng tạo ra các giá trị phổ quát chung toàn nhân loại, làm mờ ranh giới giữa các quốc gia, khu vực địa lý và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa riêng của các dân tộc trên thế giới, tác động nghiêm trọng đến sự đứng vững, tồn tại và phát triển của từng quốc gia, dân tộc và của từng khu vực trên thế giới. Trong bối cảnh ấy, bản sắc văn hóa riêng, độc đáo của dân tộc là sự tự khẳng định mình trước cộng đồng nhân loại.
Khẳng định Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập với thế giới là một điều kiện tất yếu để phát triển trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có văn hóa. Song theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn, đây là một quá trình phức tạp, không chỉ có đồng thuận mà còn có cả mâu thuẫn, xung đột trên nhiều phương diện và cấp độ khác nhau. “Vì vậy đặt ra yêu cầu cần xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế giữa bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại”- PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho hay.
Xây dựng một chiến lược phát triển nền văn hóa toàn diện, có hội nhập quốc tế, nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó đề cao việc xử lý tốt các xung đột nảy sinh bằng việc tạo điều kiện để làm sống dậy mọi tiềm năng văn hóa như một tiềm lực nội sinh mạnh mẽ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Quan điểm này đã được Đảng và Nhà nước quán triệt xuyên suốt ngay từ những ngày đầu Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế cho đến nay.
Theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn, nếu như ở các kỳ Đại hội VI, VII, VIII khi mới tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, các chủ trương của Đảng qua các kỳ đại hội mới chỉ bước đầu tập trung vào các vấn đề “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, “mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực” và “nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế”,… thì ở các kỳ đại hội sau, nhận thức và tư duy lý luận về toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế của Đảng ngày càng hoàn thiện.
Đến Đại hội IX của Đảng đã xác định: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”. Đặc biệt, “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020” đã nhấn mạnh đến vai trò và việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa trong tiến trình Việt Nam tham gia và chủ động hội nhập quốc tế, coi bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề trọng đại, sống còn của mỗi quốc gia.
Quá trình hội nhập mang lại những thành tựu trong công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc |
Xây dựng những chính sách văn hóa đồng bộ
Trong nhiều năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, cùng với quá trình chủ động hội nhập quốc tế với nâng cao sức mạnh nội sinh trong văn hóa, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở những quy mô khác nhau. “Những thành tựu này đã khẳng định tính đúng đắn trong đường lối phát triển văn hóa của Đảng ta cũng như sức mạnh của Nhà nước, của toàn dân trong công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa trong hội nhập quốc tế và để xây dựng nền văn hóa mới”- PGS.TS Bùi Hoài Sơn chỉ rõ.
Tuy nhiên, PGS.TS Bùi Hoài Sơn nhìn nhận, thực tiễn hoạt động văn hóa cho thấy bên cạnh những thành tựu lớn cũng tồn tại những bất cập không nhỏ về quan niệm, về phương thức thực hành, và cả về từng hoạt động cụ thể trong việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh mới. Mặc dầu đã có sự chuẩn bị, song chúng ta chưa lường hết được những sức ép, những thử thách gay gắt và những tác động phức tạp của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, vốn như một cơn lốc mạnh cuốn phăng những gì non nớt, thiếu bền vững.
Vì vậy, để có thể chống chọi lại cơn lốc mạnh mẽ ấy, PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho rằng, cần có những giải pháp đối với các vấn đề, như: Nguy cơ gia tăng xung đột văn hóa, xâm lăng văn hóa, đồng nhất văn hóa toàn cầu; sự đảo lộn các giá trị văn hóa ngày càng có xu hướng tăng; đó là sự đề cao các giá trị vật chất và coi trọng các giá trị văn hóa ngoại lai không lành mạnh theo khuynh hướng xã hội công nghiệp hiện đại và mặt trái của kinh tế thị trường như tâm lý hưởng thụ, lối sống vì tiền, chú ý lợi ích vật chất; kho tàng di sản văn hóa của các dân tộc trong tình trạng bị mai một, nhiều di sản văn hóa khó hoặc không thể giữ gìn, phát huy giá trị do không được kế thừa, trao truyền...
Bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế, chính sách kiên trì với đường lối phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn chúng ta cũng cần có định hướng đúng đắn để xây dựng những chính sách văn hóa đồng bộ phù hợp với thời đại để xử lý hài hòa mối quan hệ tương tác giữa sức ép của toàn cầu hóa trên lĩnh vực văn hóa và nhu cầu bảo tồn văn hóa dân tộc theo hướng vừa tăng cường giao lưu vừa giữ được bản sắc văn hóa Việt Nam, nhất là trong bối cảnh khoa học công nghệ và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ.
Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, việc khẳng định bản sắc văn hoá, tạo ra những lợi thế từ những đặc trưng văn hoá, từ đó hình thành nên những sản phẩm không thể so sánh, có giá trị đặc biệt vừa giúp các quốc gia tạo ra lợi thế cạnh tranh, vừa giúp khẳng định chủ quyền quốc gia về văn hoá là hết sức quan trọng, cấp thiết. Để làm được điều này, cần thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Bởi, với tiềm năng văn hoá, cùng lịch sử hàng ngàn năm chính là những chất liệu tuyệt vời cho sáng tạo, tạo ra những sản phẩm văn hoá nghệ thuật vừa tôn vinh văn hoá dân tộc, vừa tạo ra sự khác biệt, giá trị riêng cho các sản phẩm văn hoá nghệ thuật.
Trong giai đoạn hiện nay, PGS.TS Bùi Hoài Sơn khuyến nghị, để phát triển một ngành công nghiệp văn hoá cần có chính sách thu hút đầu tư vào các lĩnh vực này, nhất là cần huy động sự tham gia của toàn xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp. “Chúng ta đã có những quyết tâm về chính trị, có sự năng động trong thực tế với những sản phẩm văn hóa có thể khai thác giá trị văn hóa của dân tộc… Nếu chúng ta tận dụng được những giá trị đó bằng những tài năng của Việt Nam sẽ giúp cho đất nước phát triển bền vững, giúp khẳng định bản lĩnh giá trị Việt Nam trên trường quốc tế”- PGS.TS Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh.
Ngày 24/11 sẽ diễn Hội nghị Văn hóa toàn quốc 2021 theo chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng nhằm triển khai Nghị quyết Đại hội XIII về văn hóa. PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho hay, đây là sự kiện được coi là “Hội nghị Diên Hồng về văn hóa”. Kỳ vọng, việc truyền cảm hứng từ Hội nghị sẽ tác động đến các cấp, các ngành ở địa phương đối với việc chăm lo cho phát triển văn hóa; qua đó văn hóa sẽ có nhiều cơ hội đóng góp vào sự phát triển đất nước. |